Thiết kế và phát triển Grumman A-6 Intruder

Một chiếc A-6E Intruder chuẩn bị được phóng lên trên tàu sân bay USS Enterprise.

Chiếc Intruder được phát triển nhằm đáp ứng một yêu cầu của Hải quân Hoa Kỳ về một chiếc máy bay cường kích hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết nhằm thay thế cho kiểu máy bay A-1 Skyraider gắn động cơ piston thời Thế Chiến II. Grumman nhận được hợp đồng vào năm 1957, và kiểu máy bay được thiết kế A2F-1 thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 19 tháng 4 năm 1960. Các ống xả động cơ phản lực nguyên thủy được thiết kế để hướng xuống dưới, nhưng chi tiết này bị loại bỏ khi sản xuất hằng loạt. Phi công ngồi phía bên trái, trong khi sĩ quan hoa tiêu/ném bom ngồi phía phải và hơi lui ra sau. Một màn hình ống điện tử chân không (CRT) cung cấp hiển thị tổng hợp về địa hình trước mặt, và với sự có mặt của thành viên đội bay thứ hai, cho phép bay ở độ cao thấp trong mọi điều kiện thời tiết. Cánh máy bay rất hiệu quả ở tốc độ dưới âm thanh so với những máy bay tiêm kích siêu âm như F-4 Phantom II, vốn cũng bay hạn chế ở tốc độ dưới âm thanh khi mang một tải trọng bom nặng. Một kiểu cánh tương tự cũng sẽ được Grumman sử dụng đặt lên trục quay của kiểu cánh thay đổi hình dạng trên chiếc F-14 Tomcat, cũng như là sẽ áp dụng bộ càng đáp tương tự.[1]